Breadcrumb

  1. Home
  2. Thông tin bằng tiếng Việt
  3. Tài liệu Thông tin: Phân biệt đối xử về Khuyết tật

Tài liệu Thông tin: Phân biệt đối xử về Khuyết tật

Đề mục I của Đạo luật Người khuyết tật Hoa Kỳ năm 1990 cấm không cho các chủ thuê lao động khối tư nhân, các chính quyền tiểu bang và địa phương, các cơ quan giới thiệu việc làm và các hiệp hội lao động có hành vi phân biệt đối xử với các cá nhân có đủ năng lực, bị các khuyết tật trong các thủ tục xin việc, thuê mướn, sa thải, thăng tiến, tiền thù lao, đào tạo việc làm, và các điều khoản, điều kiện, và đặc quyền khác của công việc. Đạo luật ADA bao hàm các chủ thuê lao động có từ 15 nhân viên trở lên, bao gồm các chính quyền tiểu bang và địa phương. Đạo luật cũng áp dụng cho các cơ quan giới thiệu việc làm và các tổ chức lao động. Các tiêu chuẩn không phân biệt đối xử của đạo luật ADA cũng áp dụng cho các nhân viên thuộc khu vực liên bang theo mục 501 của Đạo luật Phục hồi, theo như điều chỉnh sửa đổi, và các quy tắc thực hiện của đạo luật. Tìm hiểu về lịch sử của Đạo luật tại Đạo luật ADA năm thứ 25.

Một cá nhân bị khuyết tật là một người mà:

  • Có một khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần mà làm hạn chế đáng kể một, hoặc nhiều hơn, các hoạt động sống chính yếu;
  • Có một lý lịch về một khiếm khuyết như vậy; hoặc
  • Được xem như là có một khiếm khuyết như vậy.

Một nhân viên hoặc một người xin việc có đủ năng lực, bị khuyết tật là một cá nhân mà, dù có hoặc không có sự giúp đỡ hợp lý, có thể thực hiện các chức năng thiết yếu của công việc được đề cập đến. Sự giúp đỡ hợp lý có thể bao gồm, nhưng không giới hạn:

  • Làm cho các cơ sở vật chất hiện tại, mà được nhân viên sử dụng, trở nên dễ dàng cho những người bị các khuyết tật có thể tiếp cận và sử dụng được.
  • Sắp xếp lại công việc, sửa đổi lịch làm việc, tái bổ nhiệm vào một vị trí trống;
  • Có được hoặc sửa đổi trang bị hoặc các thiết bị, điều chỉnh hoặc sửa đổi các bài kiểm tra, các tài liệu đào tạo, hoặc các chính sách, và cung cấp những người đọc hộ hoặc phiên dịch viên có đủ khả năng.

Một chủ thuê lao động được yêu cầu phải thực hiện một sự giúp đỡ hợp lý cho loại khuyết tật đã được biết của một người xin việc hoặc một nhân viên có đủ năng lực, nếu sự giúp đỡ sẽ không áp đặt một “khó khăn quá mức” lên hoạt động kinh doanh của chủ thuê lao động. Những sự giúp đỡ hợp lý là những sự điều chỉnh hoặc sửa đổi do một chủ thuê lao động cung cấp nhằm làm cho người bị các khuyết tật có khả năng được hưởng các cơ hội việc làm bình đẳng. Những sự giúp đỡ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các nhu cầu của từng người xin việc hoặc từng nhân viên. Không phải tất cả những người bị các khuyết tật (hoặc thậm chí tất cả những người bị cùng một loại khuyết tật) đều sẽ yêu cầu sự giúp đỡ như nhau. Ví dụ:

  • Một người xin việc bị điếc có thể cần một phiên dịch viên về ngôn ngữ ký hiệu trong buổi phỏng vấn xin việc.
  • Một nhân viên bị mắc bệnh đái tháo đường có thể cần những khoảng thời gian nghỉ giảo lao được sắp xếp đều đặn trong ngày làm việc để ăn uống đúng cách và theo dõi mức đường huyết và mức insulin.
  • Một nhân viên bị mù có thể cần một người nào đó đọc giúp thông tin được dán trên một bảng thông báo.
  • Một nhân viên bị mắc bệnh ung thư có thể cần được nghỉ phép để tiếp nhận điều trị xạ trị hoặc hóa trị.

Một chủ thuê lao động không cần phải cung cấp một sự giúp đỡ hợp lý nếu sự giúp đỡ này áp đặt một “khó khăn quá mức”. Khó khăn quá mức được định nghĩa là một hành động đòi hỏi rất nhiều sự khó nhọc hoặc chi phí khi được xem xét có cân nhắc đến các yếu tố như là quy mô, các nguồn tài chính của một chủ thuê lao động, và về bản chất và cơ cấu hoạt động của chủ thuê lao động.

Một chủ thuê lao động không bị yêu cầu phải hạ thấp các tiêu chuẩn chất lượng hoặc sản xuất để thực hiện một sự giúp đỡ; một chủ thuê lao động cũng không bị bắt buộc phải cung cấp các đồ dùng cá nhân như là mắt kính hoặc máy trợ thính.

Một chủ thuê lao động thường không cần phải cung cấp một sự giúp đỡ hợp lý trừ khi một cá nhân bị khuyết tật đã có hỏi xin một sự giúp đỡ hợp lý. Nếu một chủ thuê lao động tin rằng một tình trạng bệnh lý đang gây ra một vấn đề về năng suất và hành vi, thì chủ thuê lao động có thể hỏi người nhân viên cách để giải quyết vấn đề và liệu người nhân viên có cần một sự giúp đỡ hợp lý hay không. Một khi có thỉnh cầu về một sự giúp đỡ hợp lý, chủ thuê lao động và cá nhân đó nên thảo luận về các nhu cầu của cá nhân đó và nhận ra sự giúp đỡ hợp lý thích hợp. Trong trường hợp có nhiều hơn một sự giúp đỡ sẽ có tác dụng, chủ thuê lao động có thể chọn một sự giúp đỡ ít tốn kém hơn hoặc dễ cung cấp hơn.

Đề mục I của đạo luật ADA cũng bao hàm:

  • Khám Sức khỏe và Các câu hỏi truy vấn
    Các chủ thuê lao động không thể hỏi người xin việc làm về sự tồn tại, bản chất, hoặc mức độ nghiêm trọng của khuyết tật mà họ mắc phải. Người xin việc có thể được hỏi về năng lực của họ trong việc thực hiện các chức năng công việc cụ thể. Một thư mời nhận việc có thể được ước định dựa trên kết quả khám sức khỏe, nhưng chỉ khi việc khám sức khỏe được yêu cầu cho tất cả các nhân viên được nhận vào làm trong các công việc tương tự. Việc khám sức khỏe cho nhân viên phải có liên quan đến công việc và nhất quán với các nhu cầu cơ bản của chủ thuê lao động.

    Các hồ sơ bệnh án phải được bảo mật. Quy tắc cơ bản là rằng với các ngoại lệ hạn chế, các chủ thuê lao động phải giữ bảo mật mọi thông tin y tế mà họ biết được về một người xin việc hoặc một nhân viên. Thông tin có thể được bảo mật ngay cả khi không có chứa trong đó các chẩn đoán y tế hoặc quá trình điều trị, và ngay cả khi không phải là do một chuyên gia y tế lập ra. Ví dụ, thỉnh cầu của một nhân viên về một sự giúp đỡ hợp lý sẽ được xem như là thông tin y tế và phải phụ thuộc vào các yêu cầu bảo mật của đạo luật ADA.
  • Lạm dụng Ma túy và Rượu
    Các nhân viên và người xin việc hiện đang dính líu đến việc sử dụng trái phép chất ma túy thì sẽ không được đạo luật ADA bao hàm khi một chủ thuê lao động hành động trên cơ sở của việc sử dụng như vậy. Các bài kiểm tra về các chất ma túy bất hợp pháp thì không phụ thuộc vào các hạn chế của đạo luật ADA đối với việc khám sức khỏe. Các chủ thuê lao động có thể bắt những người sử dụng chất ma túy bất hợp pháp và những người nghiện rượu phải tuân thủ các tiêu chuẩn về năng suất giống như các nhân viên khác.

Việc trả thù một cá nhân vì phản đối lại các thông lệ lao động mà phân biệt đối xử dựa trên khuyết tật, hoặc vì gửi một cáo buộc phân biệt đối xử, làm chứng, hoặc tham gia bằng bất kỳ cách nào vào một cuộc điều tra, vào thủ tục xúc tiến vụ kiện, hoặc vào việc tố tụng theo đạo luật ADA là cũng trái pháp luật.

Ưu đãi Thuế Liên bang nhằm Khuyến khích Tuyển dụng Những người bị Các khuyết tật và nhằm Đẩy mạnh Khả năng tiếp cận Các sự giúp đỡ Công cộng

Luật Thuế Vụ có bao gồm một vài điều khoản mà nhắm vào việc làm cho các doanh nghiệp trở nên dễ tiếp cận hơn cho những người bị các khuyết tật. Phần tiếp theo đây sẽ cung cấp thông tin chung và không liên quan đến luật về ba trong số các ưu đãi thuế đáng kể nhất. (Các chủ thuê lao động nên kiểm tra lại với các kế toán hoặc chuyên viên tư vấn thuế của họ nhằm xác định khả năng đủ điều kiện hưởng các ưu đãi này hoặc vào trang web của Sở Thuế Vụ, www.irs.gov, để biết thêm thông tin. Có thể sẵn có các ưu đãi thuế tương tự của tiểu bang và địa phương.)

  • Miễn trừ Thuế cho Doanh nghiệp Nhỏ (Luật Thuế Vụ Mục 44: Miễn trừ vì cung cấp Phương tiện tiếp cận cho Người khuyết tật)

    Các doanh nghiệp nhỏ mà hoặc là có doanh thu bằng hoặc thấp hơn $1,000,000 hoặc là có từ 30 nhân viên toàn thời gian trở xuống có thể được nhận một khoản miễn trừ thuế hàng năm lên đến $5,000 cho phần chi phí bỏ ra để cung cấp các sự giúp đỡ hợp lý như là phiên dịch viên về ngôn ngữ ký hiệu, người đọc hộ, các tài liệu ở định dạng khác (như là chữ nổi Braille hoặc chữ in lớn), mua trang bị thích ứng, sửa đổi trang bị hiện tại, hoặc loại bỏ các rào cản về kiến trúc.

  • Miễn trừ Thuế cho Cơ hội Việc làm (Luật Thuế Vụ Mục 51)

    Các chủ thuê lao động mà thuê các nhóm mục tiêu nhất định có thu nhập thấp, bao gồm các cá nhân do các cơ quan phục hồi nghề nghiệp giới thiệu và các cá nhân nhận Tiền Trợ cấp An sinh (SSI), có thể đủ điền kiện hưởng một khoản miễn trừ thuế hàng năm lên đến $2,400 cho mỗi một nhân viên đủ tiêu chuẩn mà làm việc ít nhất 400 giờ trong năm tính thuế. Ngoài ra, một khoản miễn trừ tối đa là $1,200 có thể sẵn có cho mỗi một nhân viên trẻ đủ tiêu chuẩn được tuyển dụng vào mùa hè.

  • Khấu trừ Thuế về Kiến trúc/Đi lại (Luật Thuế Vụ Mục 190 Loại bỏ Rào cản):

    Khoản khấu trừ hàng năm lên đến $15,000 này thì sẵn có cho các doanh nghiệp với bất kỳ quy mô nào cho các chi phí bỏ ra để loại bỏ các rào cản cho những người bị các khuyết tật, bao gồm những việc sau: cung cấp các khoảng trống, các con dốc và các phần đường dốc nối từ vỉa hè xuống dưới lòng đường dành cho việc đậu xe mà người bị các khuyết tật có thể tiếp cận được; cung cấp điện thoại, vòi nước, và nhà vệ sinh mà người ngồi xe lăn có thể tiếp cận được; làm các lối đi rộng ít nhất 48 inches, và làm các lối dễ dàng ra vào.